“Đò qua sông Bạng đêm khuya vắng
Chở cả đạo người lẫn đức tâm…”
Đêm buông xuống thật chậm trên vùng quê Hải Thanh. Bầu trời như một tấm vải đen thẫm, vắt ngang vài ánh sao lẻ loi, rải rác sáng rồi lại lịm dần trong sương. Trên dòng sông Lạch Bạng hiền hòa nhưng sâu thẳm, chỉ còn tiếng nước vỗ nhè nhẹ vào mạn thuyền, tiếng côn trùng rả rích vọng lên từ bãi lau ven bờ. Ấy là lúc người cha già của tôi bắt đầu một chuyến đò khuya.
Chiếc đò nang đã theo cha gần hết đời người, mòn đi bởi muối gió và nước sông, giờ chỉ còn lại dáng cũ kỹ, rệu rã, nhưng vẫn chắc chắn dưới bàn tay lái quen thuộc. Mỗi khi có khách lỡ độ đường, muốn qua sông từ bến Hải Thanh sang bến Hải Bình, người ta lại cất tiếng gọi trong đêm rồi cha tôi lặng lẽ nắm lấy mái chèo. Người cha già ấy, chưa bao giờ để ai phải chờ đợi lâu.
Trên sông, gió thổi hun hút. Có những đêm trăng sáng, ánh bạc rắc xuống mặt nước lấp lánh, cha bảo: “Đêm nay sông hiền, chèo cũng nhẹ tay.” Nhưng cũng lắm khi trời âm u, sương mù giăng đặc, ngọn đèn dầu lập lòe nơi mũi đò chỉ soi được một khoảng nhỏ hẹp. Cha vẫn chèo, lặng lẽ, nhẫn nại, như thể gắn chặt đời mình vào con nước, vào những chuyến đò đi về chẳng kể ngày đêm.
Ở phương Nam Tôi mường tượng thấy bóng cha trong đêm khuya ấy sao quá cô độc. Trên sông chỉ còn lại tiếng mái chèo khua đều, văng vẳng tiếng sóng vỗ vào thân đò như một khúc nhạc buồn. Người khách đôi khi ngồi trầm mặc, đôi khi hỏi han vài câu rồi cũng chìm vào lặng im. Cả khoảng không rộng lớn chỉ còn lại cha, mái chèo, và dòng nước vô tình. Mỗi chuyến đò đưa khách qua sông, cha lại gom thêm vào lòng mình một nỗi quạnh hiu.
Nhưng cha chưa bao giờ phàn nàn, chưa một lần từ chối ai. Dù là đêm khuya gió bấc cắt da, dù mưa rơi lách tách, cha vẫn sẵn sàng đưa khách sang sông. Với cha, công việc ấy không chỉ là mưu sinh. Nó như một bổn phận, một cái nợ ân tình với quê hương, với dòng sông Lạch Bạng đã nuôi cha từ thuở thiếu thời. Cha từng bảo: “Người ta cần qua sông, mình có đò, có sức, thì mình giúp. Sông sâu không thể cản bước chân người, chỉ cần có người chèo lái.”
Tôi đã bao lần nhìn bóng cha lầm lũi trở về sau những chuyến đò khuya, dáng hình mệt mỏi, áo quần thấm sương, tóc ướt rối bời. Mỗi bước chân như nặng trĩu. Vậy mà khi thấy tôi thức chờ, cha chỉ cười hiền: “Khách sang bờ rồi, yên lòng ngủ đi con.” Nụ cười ấy, trong ánh đèn dầu leo lét, vừa ấm áp lại vừa khiến tôi nghẹn ngào. Nó sáng lên trong đêm tối, nhưng cũng ẩn chứa biết bao nỗi nhọc nhằn không nói thành lời.
Cuộc đời cha tôi gắn liền với sông nước. Dường như dòng sông Lạch Bạng đã trở thành tri kỷ, chứng nhân cho tuổi trẻ và tuổi già của cha. Sông lặng im nghe tiếng chèo, nghe nhịp thở gấp gáp trong những đêm mưa bão, nghe cả những tiếng ho khan dằng dặc mỗi khi trái gió trở trời. Cha như một ngọn đèn nhỏ nhoi, kiên nhẫn thắp sáng giữa màn đêm bao la, để khách qua sông được bình an.
Trong cái tĩnh mịch của đêm khuya, đôi khi tôi tự hỏi: cha có buồn không khi chỉ có mình và con nước? Cha có thấy lòng mình chùng xuống khi ánh mắt khách lướt qua, vội vã sang bờ rồi biến mất trong đêm tối, để lại cha một mình quay về bến vắng? Tôi tin, sâu thẳm trong tâm hồn cha, có lẽ cũng có lúc chạnh lòng. Nhưng cha chẳng bao giờ để lộ. Cái buồn ấy được giấu sau từng nhát chèo vững chãi, sau đôi mắt đã quen nhìn bóng tối và sương mù.
Những chuyến đò khuya của cha, âm thầm mà đầy nhân nghĩa. Người khách nào sang sông cũng thấy yên tâm bởi tấm lòng nhiệt tình, tận tụy. Có lẽ, trong ký ức của biết bao người dân nơi đây, bóng dáng người lái đò già trên dòng Lạch Bạng sẽ mãi hiện hữu, như một phần không thể tách rời của bến sông quê hương.
Thời gian trôi đi, mái tóc cha tôi bạc trắng, đôi mắt sâu dần. Nhưng hễ ai gọi, cha vẫn ra đò. Dáng hình cha gầy gò giữa gió đêm, trông như một bóng cây khẳng khiu nhưng bền bỉ, dẫu gió mưa có quật ngã, vẫn đứng đó để che chở, để cho người ta qua lại. Cha giống như nhịp cầu nối hai bờ sông bến Hải Thanh – Bình, nối những cuộc đời với nhau, bằng chính sự vất vả âm thầm của mình.
Có những đêm, tôi ngồi bên bờ, nghe tiếng mái chèo xa dần rồi mất hút, lòng nghẹn lại. Tôi biết, một ngày nào đó, cha sẽ không còn đủ sức để chèo đò, để nghe tiếng sóng vỗ bên mạn thuyền. Khi ấy, dòng Lạch Bạng vẫn chảy, bến sông vẫn còn, nhưng người lái đò già sẽ chỉ còn lại trong ký ức, trong những câu chuyện mà người dân Hải Thanh, Hải Bình nhắc lại với nhau trong niềm thương nhớ.
“Những chuyến đò khuya” – nghe mà day dứt biết bao. Nó không chỉ là hành trình của khách qua sông, mà còn là hành trình đời cha. Mỗi chuyến đò khuya, cha đưa không chỉ con người, mà còn chở cả nỗi niềm, sự tận tâm, và một tấm lòng thương người vô hạn. Trên dòng sông quê lặng lẽ, bóng cha hiện lên như một biểu tượng của sự hy sinh, bền bỉ và yêu thương.
Và tôi, mỗi lần nhớ về cha, lại nhớ nhất là dáng hình ấy: một bóng dáng già nua, lặng lẽ trên con đò nhỏ, đưa người sang sông trong cái lạnh cắt da, trong đêm tối mênh mông. Hình ảnh ấy vừa bình dị, vừa thiêng liêng, là một phần máu thịt của quê hương, của ký ức, và cũng là ngọn lửa ấm áp soi sáng suốt tuổi thơ tôi.
Những chuyến đò khuya của cha sẽ còn mãi trong lòng người lữ khách, như dòng Lạch Bạng chảy miết không ngừng. Dù năm tháng có đổi thay, lữ khách qua sông vẫn sẽ nhớ đến cha – người lái đò già nhưng giàu lòng nhân hậu, để tự nhắc mình sống tử tế, sống chan hòa, như cách cha đã sống cả một đời bên dòng sông quê Lạch Bạng!
(Hoàng Văn Phi)