Như Áng (Hải Bình) – một làng chài cổ ven biển cửa sông Bạng (Kênh Than), Ba Làng


Như Áng là làng biển cổ nằm ở hữu ngạn sông Kênh Than phía phường Hải Bình bên cửa Lạch Bạng; hiện nay tương ứng với Tổ dân phố Liên Đình, phường Hải Bình (Nghi Sơn) và vẫn duy trì các sinh hoạt lễ hội làng (thành hoàng, đầu xuân).

1) Lịch sử hình thành (từ Hậu Lê đến nay)

Thế kỷ XV (Hậu Lê): Tư liệu bản đồ học lịch sử cho thấy địa danh “xã Như Áng” đã xuất hiện quanh cửa Du/Điển Du (tên cổ của cửa Lạch Bạng) trên tư liệu Hán Nôm và đối chiếu bản đồ cổ (Dumoutier, “Chinh Tây kỷ hành” – mục bài số 8). Điều này xác nhận sự hiện diện sớm của đơn vị cư trú Như Áng tại vùng cửa sông này.

Thời Nguyễn – đầu thế kỷ XX: Như Áng là làng biển thuộc tổng Tuần La (Tĩnh Gia). Trước 1954, trong phạm vi tổng này đã hình thành những hộ làm nghề mắm, riêng Như Áng có 12 hộ chế biến hải sản làm nước mắm, cho thấy kinh tế biển – mắm là “DNA” sinh kế ở đây.

Sau 1954 đến Đổi mới (1986+): Làng tiếp tục dựa vào đánh bắt, làm muối, làm mắm; quá trình đô thị hóa – công nghiệp hóa khu vực Nghi Sơn sau này khiến đồng muối và sinh kế truyền thống biến động (một phần bị bỏ hoang do hiệu quả thấp/ô nhiễm).

Hiện đại: Như Áng chuyển dịch một phần sang dịch vụ – chế biến hải sản, du lịch biển Hải Bình; các lễ hội làng được phục hồi mạnh mẽ (văn nghệ – tế lễ – trò chơi dân gian dịp đầu xuân).

2) Địa mạo – thủy văn

Như Áng nằm sát cửa Lạch Bạng – đoạn hạ lưu sông Bạng đổ ra biển. Không gian thủy văn chịu ảnh hưởng thủy triều, cửa sông – bờ cát – đầm nông; bên kia sông là dải núi Do Xuyên (Liên Phong) thuộc phường Hải Thanh tạo thế “núi áp biển – sông cửa mở”, hợp thành không gian văn hóa Cửa Bạng. (Lưu ý: các đền/chùa nổi tiếng như Đót Tiên, Lạch Bạng… thuộc bờ Hải Thanh, không gán cho Như Áng).

3) Cư dân học: gốc & di cư

Cư dân gốc: chủ yếu là người Kinh ven biển, tổ chức cộng đồng theo giáp/họ, nghề nghiệp xoay quanh đi biển – làm muối – mắm từ nhiều đời.

Dịch chuyển dân cư: Từ cuối thế kỷ XX, lao động trẻ đi làm xa/đi biển xa bờ, một bộ phận rời nghề muối do thu nhập bấp bênh; đồng thời có di biến động mùa vụ theo mùa cá và cơ hội việc làm trong KKT Nghi Sơn. (Báo chí địa phương ghi nhận xu hướng bỏ hoang đồng muối ở Hải Bình, phản ánh sự dịch chuyển sinh kế).

4) Nghề nghiệp truyền thống & chuyển đổi sinh kế

Đánh bắt – chế biến hải sản: Ngư dân Như Áng khai thác cá cơm, cá nục, mực…, kèm chuỗi chượp mắm/nước mắm; báo chí địa phương ghi nhận vai trò “làng mắm ở Hải Bình” và những nỗ lực phục hồi nghề.

Làm muối: Đồng muối Hải Bình – Hải Châu cạnh biển Hải Thanh từng là mảng sinh kế lớn; tuy vậy từ 2010s hiệu quả giảm, phần diện tích bị bỏ hoang.

Hiện nay: Bên cạnh đánh bắt, nhiều hộ tham gia thu mua – phơi sấy – đông lạnh – kinh doanh đặc sản (mực khô, tôm khô, nước mắm cốt) và dịch vụ du lịch biển Hải Bình.

5) Giao thương & kết nối

Từ xưa, cửa Lạch Bạng là “cửa ngõ sông – biển” giúp thuyền nhỏ ra khơi, thuyền sông giao lưu nội địa, tạo mạng trao đổi hải sản/muối với chợ vùng Tĩnh Gia. Ngày nay, Như Áng (Hải Bình) gắn kết với trung tâm Nghi Sơn qua đường bộ, đồng thời hưởng lợi từ không gian du lịch Cửa Lạch Bạng – Biện Sơn lân cận.

6) Văn hóa – lễ hội – phong tục

Lễ hội làng Như Áng (Thành hoàng & hội đầu xuân): tổ chức thường niên vào rằm tháng Giêng (13–15 AL, tùy năm), gồm tế yết – rước – diễn xướng – trò chơi dân gian – văn nghệ tại Nhà văn hóa TDP Liên Đình; đây là “bản sắc nhận diện” Như Áng ở bờ Hải Bình.

“Mỹ tục tải mã” đầu năm: ghi chép về tục rước cờ (tải mã) – mở hội đầu xuân của chính làng biển Như Áng cho thấy cấu trúc lễ thức, không gian rước và vai trò cộng đồng ngư dân.

Tư liệu chuyên khảo: Có công trình độc lập “Văn hóa dân gian làng biển Như Áng, xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa” (Hoàng Minh Tường, 2014) – nguồn tổng thuật thực địa về tín ngưỡng, lễ hội, tri thức dân gian tại Như Áng.

7) Tôn giáo – tín ngưỡng

bờ Hải Bình (Như Áng), tín ngưỡng làng – thành hoàng – lễ hội đầu xuân giữ vai trò trục văn hóa; nghi thức thờ thần biển/cầu mùa hiện diện qua lễ hội. Công giáo tập trung rất mạnh ở bờ đối diện (Ba Làng – phường Hải Thanh), tạo nên tổng thể không gian tôn giáo đa dạng quanh cửa Lạch Bạng, nhưng Như Áng nổi bật bởi lễ hội làng và thực hành dân gian của chính cộng đồng mình.

8) Các mốc thời gian tiêu biểu (tóm tắt)

TK XV (Hậu Lê): “xã Như Áng” hiện trên tư liệu bản đồ – văn hiến, gắn cửa Du/Điển Du (Lạch Bạng).

Trước 1954: Thuộc tổng Tuần La; riêng Như Áng đã có 12 hộ làm mắm trong 20 hộ của tổng.

1986+ (Đổi mới): tiếp tục nghề biển, mắm; xuất hiện chuyển dịch lao động.

2010s–2020s: suy giảm nghề muối/diện tích bỏ hoang; song lễ hội làng – đầu xuânphục hồi mạnh.

Tài liệu tham khảo (APA – gợi ý trích dẫn)

• Hoàng, M. T. (2014). Văn hóa dân gian làng biển Như Áng, xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Hà Nội: Nxb Thời Đại. (mục lục thư viện)

• Ấn phẩm Tia Sáng. (2020, 12/5). Cửa biển Việt Nam thế kỷ XV: Những khúc xạ địa lý học lịch sử. (phần đối chiếu: cửa Du/Điển Du, xã Như Áng).

• Văn Hóa Nghệ Thuật. (2022, 11/2). Mỹ tục “tải mã” đón Tết của người dân làng biển Như Áng (xác nhận Như Áng = TDP Liên Đình, phường Hải Bình; số hộ làm mắm trước 1954).

• Báo Thanh Hóa. (2024, 20/5). Non nước Cửa Bạng (mô tả không gian cửa Lạch Bạng; đối diện Do Xuyên ở Hải Thanh).

• Kinh tế & Đô thị. (2017, 17/8). Vẻ đẹp lao động trên đồng muối Tĩnh Gia (đồng muối Hải Bình–Hải Châu).

• Dân Việt. (2017, 28/5). Gần 100ha đất làm muối Hải Bình bị bỏ hoang vì ô nhiễm.

• Đại Đoàn Kết. (2024, 16/10). Những ruộng muối không bóng người ở Thanh Hóa (xu thế suy giảm nghề muối tại Nghi Sơn).

• VH&ĐS Thanh Hóa. (2021, 8/10). Người “tìm lại” làng mắm ở Hải Bình.

• Một số bản tin/clip cộng đồng xác nhận lễ hội làng Như Áng tại TDP Liên Đình (2025).

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *